Lịch sử Thủ tướng Ba Lan

Đệ nhị Cộng hòa

Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Ba Lan khôi phục nền độc lập. Trong nước các nhóm tranh giành chính quyền. Ở Lublin, Ignacy Daszyński tuyên bố thành lập chính phủ xã hội chủ nghĩa lâm thời. Ở Kraków có chính quyền tự xưng khác tuyên bố chủ quyền đối với Tây Galicja.[5]Warszawa, Józef Piłsudski được Hội đồng Nhiếp chính chọn làm quốc trưởng.[6] Piłsudski mời Daszyński về thủ đô làm vị thủ tướng đầu tiên của Đệ nhị Cộng hòa.[5] Tuy nhiên, chính phủ của Daszyński sớm đổ do nội bộ lục đục. Piłsudski bổ nhiệm Jędrzej Moraczewski thay Daszyński, Moraczewski lập được chính phủ ổn định.

Phiên họp Hội đồng Bộ trưởng của Thủ tướng Leopold Skulski vào năm 1920.

Tiểu Hiến pháp năm 1919 thành lập chế độ đại nghị nhưng quy định nhiều quyền hạn cho quốc trưởng:[7] quốc trưởng bổ nhiệm các thành viên Hội đồng Bộ trưởng có nghị viện đồng ý, quốc trưởng và các bộ trưởng chịu trách nhiệm trước nghị viện, văn bản của quốc trưởng phải có bộ trưởng tiếp ký.[8][9] Năm 1921, nghị viện thông qua hiến pháp mới phỏng theo hiến pháp của Đệ tam Cộng hòa Pháp để giảm quyền lực của Piłsudski: quyền hạn được tập trung vào tay hạ viện;[10] chức quốc trưởng bị phế; chức tổng thống mới không có thực quyền, kể cả quyền phủ quyết luật và những quyền hạn chiến tranh.[11]

Trên cơ sở pháp lý thì thủ tướng và hội đồng bộ trưởng dựa vào hạ viện mà nắm quyền, không cần phải có tổng thống đồng ý để thi hành chương trình nghị sự. Tuy nhiên, thực tế là chính trị Đệ nhị Cộng hòa khắc nghiệt, các đảng phái trong nghị viện sớm nắng chiều mưa,[12] địa vị của thủ tướng không yên ổn: từ năm 1918 tới năm 1926 có 11 thủ tướng, 14 hội đồng bộ trưởng lên nắm quyền, nội 5 năm sau khi hiến pháp năm 1921 được thông qua thôi có chín hội đồng bộ trưởng.[13] Năm 1926, Piłsudski cùng những thành phần trong quân đội bất mãn đối với tình hình chính trị hỗn loạn lật đổ chính phủ.

Piłsudski sửa lại hiến pháp, quy định cho chức tổng thống được quyền giải tán hạ viện, ban hành pháp lệnh và quyết định ngân sách nhà nước.[14] Tuy bề mặt thì vẫn là chế độ đại nghị do thủ tướng đứng đầu, nhưng sự thật là Piłsudski đứng đằng sau giật dây.[15] Năm 1935, Piłsudski ban hành hiến pháp mới, thành lập chế độ "siêu tổng thống":[16] tổng thống có quyền giải tán nghị viện, bổ nhiệm, miễn nhiệm thủ tướng, thành viên hội đồng bộ trưởng, thẩm phán.[17] Cho tới trước khi bùng phát Chiến tranh thế giới thứ hai, chính phủ Ba Lan do tổng thống chi phối, thủ tướng phụ thuộc vào tổng thống.

Cộng hòa Nhân dân

Vào thời kỳ Cộng hòa Nhân dân, Đảng Lao động Thống nhất Ba Lan lãnh đạo nhà nước.[18] Chức thủ tướng tuy vẫn còn nhưng chủ yếu là thừa hành lệnh của Bộ Chính trị Đảng Lãnh đạo Thống nhất Ba Lan.[19] Quyền hạn của chức thủ tướng tùy theo thế lực của người giữ chức chứ không phải hiến pháp.[20] Đầu năm 1989, Đảng Lao động Thống nhất Ba Lan hội đàm với phong trào đối lập do Công đoàn Đoàn kết lãnh đạo.[21] Hai bên đồng ý sửa lại hiến pháp: thượng viện và chức tổng thống được khôi phục, hạ viện được thêm quyền hạn.

Đệ tam Cộng hòa

Tadeusz Mazowiecki, nguyên chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Ba Lan đi xem triển lãm ở Warszawa.

Sau cuộc bầu cử quốc hội năm 1989, Tadeusz Mazowiecki trở thành vị thủ tướng đầu tiên không phải là đảng viên Đảng Lao động Thống nhất Ba Lan kể từ năm 1946. Mazowiecki đối mặt với khó khăn định hình những quyền hạn khá mơ hồ của chức thủ tướng. Vào những năm đầu của nền Đệ tam Cộng hòa, một loạt chính phủ liên tiếp đổ.[22] Vừa phải quản lý chính phủ, thủ tướng vừa phải đối đầu với chức tổng thống mới được tái lập.[23] Sau khi đắc cử tổng thống vào năm 1990, Lech Wałęsa muốn tập trung quyền hạn vào tay tổng thống, kể cả quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm thủ tướng và các thành viên hội đồng bộ trưởng.[24] Về sau Wałęsa chịu nhượng bộ mà chỉ chủ trương thành lập chế độ bán tổng thống phỏng theo nền Đệ ngũ Cộng hòa của Pháp.[24] Năm 1992, quốc hội Ba Lan thông qua tiểu hiến pháp mới, quy định tổng thống có quyền được hội ý về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm bộ trưởng bộ quốc phòng, ngoại giao và nội vụ.[25] Thủ tướng Hanna Suchocka có quan hệ làm việc tốt với Wałęsa. Wałęsa tiếp tục vận động quốc hội tăng cường quyền hạn cho chức tổng thống.[25] Tuy nhiên, Wałęsa thất cử tổng thống vào năm 1995.

Từ năm 1996 tới năm 1997, quốc hội thông qua một loạt luật tập trung quyền hạn vào tay thủ tướng.[26] Năm 1997, quốc hội thông qua hiến pháp hiện hành, hiến định quyền hạn của thủ tướng. Tổng thống mất quyền được hội ý về nhân sự bộ trưởng, quyền bác bỏ danh sách thành viên hội đồng bộ trưởng của thủ tướng, quyền đồng ý cải tổ hội đồng bộ trưởng và quyền phủ quyết ngân sách nhà nước.[27] Phủ Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng được thành lập làm cơ quan giúp việc của thủ tướng, phối hợp với các bộ chuẩn bị chính sách.[28] Thủ tướng trở thành người đứng đầu chính phủ.[26]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thủ tướng Ba Lan http://indylaw.indiana.edu/instructors/cole/web%20... http://www.clubmadrid.org/en/noticia/the_club_of_m... http://www.ipsir.uw.edu.pl/informacje_o_instytucie... http://www.kprm.gov.pl/en.html http://www.premier.gov.pl http://www.mowimyjak.pl/fakty/kto-jest-kim/gdzie-w... http://www.president.pl/en/presidential-residences... http://etheses.lse.ac.uk/112/1/Lasok_The_Polish_Co... https://www.ig.com/uk/forex/research/pay-check https://archive.org/details/newparliamentsof0000un...